Theo GS. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục, một trong những nguyên nhân dẫn đến bất cập trong nền giáo dục hiện nay là tâm lý sính bằng cấp hiện diện rất nặng nề trong xã hội, kể cả ở cấp quản lý nhà nước.
Nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập và mâu thuẫn
Khi đánh giá thực trạng
của nền giáo dục hiện nay, GS. Phạm Minh Hạc cho rằng không thể phủ
nhận những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong những thập kỷ qua.
Nhờ có đường lối giáo dục đúng đắn, truyền thống hiếu học đã được hun
đúc qua bề dày lịch sử đất nước và đội ngũ giáo viên có tâm huyết, nền
giáo dục Việt Nam hiện nay đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của toàn dân
với đủ mọi cấp học (khoảng hơn 20 triệu người học hàng năm), ở khắp các
vùng miền.
Tuy nhiên, hiện nền
giáo dục cũng tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và lạc hậu, đang đứng trước
rất nhiều thách thức cần vượt qua, những mâu thuẫn phải giải quyết.
Không khó để chỉ ra bất cập từ sách giáo khoa, cơ cấu hệ thống giáo dục,
đội ngũ giáo viên đến chính sách, quản lý… trong giáo dục.
GS. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
“Đơn cử như chương trình SGK hiện tại, còn mang nặng yếu tố hàn lâm và nhiều khi dài dòng không cần thiết. Nhiều giáo viên tiểu học kêu với tôi là chương trình toán tiểu học quá nặng so với sức chịu đựng của học sinh. Ngược lại, các môn sinh vật, lịch sử ở cấp phổ thông lại được học quá ít. Đó cũng là điều mất cân đối”, GS Hạc cho biết.
Một thực trạng đáng
buồn khác là tâm lý xã hội hiện “nặng” về học chạy theo bằng cấp hơn là
để thu nạp kiến thức. “Đa số học sinh đi học, đi thi đều để kiếm mảnh
bằng đại học, bất kể giá trị tấm bằng đó như thế nào. Bởi vậy mới có
những con số đáng để suy nghĩ như mới đây, có trường đại học công bố 70%
sinh viên ra trường phải đào tạo lại, có trường “tiết lộ” trong 100
sinh viên ra trường thì chỉ 1 em đạt chất lượng, hay ở một hội chợ tuyển
dụng lao động, 1000 hồ sơ dự tuyển chỉ lấy được 7 người…”, GS Hạc dẫn
chứng.
Cần một hệ giải pháp đồng bộ
Ba kiến nghị của GS. Phạm Minh Hạc để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục:
- Đổi mới sách giáo khoa chính xác, thiết thực với phần thực hành tương thích (Cần hoàn thành viết lại SGK trước năm 2015)
- Trang bị đầy đủ thiết bị dạy học, các cấp học đều học hai buổi/ngày
- Chấn chỉnh đội ngũ nhà giáo có tay nghề.
|
Về đường lối, cần phải
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, xác định có giáo dục mới tạo được
nền tảng và động lực phát triển xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp
tục đẩy mạnh và quan tâm hơn nữa tới chế độ, chính sách dành cho giáo
viên, giúp đội ngũ nhà giáo yên tâm cống hiến với sự nghiệp “trồng
người”. Trang thiết bị dạy học, đặc biệt là SGK, cần được đổi mới, nâng
cấp cho phù hợp với tình hình và nhu cầu phát triển của giáo dục.
Một điều quan trọng mà
GS Phạm Minh Hạc nhấn mạnh là cần cải tạo tâm lý xã hội, kể cả trong
quản lý nhà nước. Suốt nhiều năm qua, nền giáo dục của ta vẫn không
thoát ra khỏi tâm lý “Hư văn, khoa cử, quan trường”, trong đó có cả phần
trách nhiệm của cơ quan quản lý. Chính tâm lý này là nguyên nhân sâu xa
dẫn tới thực tế bất lực của giáo dục Việt Nam trong việc phân luồng học sinh suốt những năm qua.
Tâm lý sính bằng cấp đang tồn tại rất nặng nề trong xã hội Việt Nam
Cơ cấu hệ thống giáo dục của Việt
Làm thế nào để cải tạo tâm lý?
GS Phạm Minh Hạc cho
rằng, để giải quyết “bài toán” cải tạo tâm lý, chúng ta cần phải thực
hiện cuộc vận động xã hội mạnh mẽ, với sự vào cuộc của đông đảo thành
phần trong xã hội, từ cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các phương tiện
thông tin đại chúng… Điều cốt yếu là phải làm thực sự và làm một cách
kiên trì bởi đây là bài toán không dễ giải.
“Trước tiên là cần giác
ngộ hay còn gọi là tư vấn tâm lý, hướng nghiệp từ rất sớm cho học sinh,
ngay từ trung học cơ sở. Ở ta hiện nay, có tới hơn 80% học sinh tốt
nghiệp THCS học tiếp lên THPT, trong khi chỉ có hơn 10% học nghề hoặc
tham gia lao động. Như vậy, vô hình chung gây sức ép quá lớn lên bậc
THPT và tạo nên “nút thắt cổ chai” ở kỳ thi đại học”, GS Hạc nói về mâu
thuẫn trong cơ cấu hệ thống giáo dục Việt Nam .
“Nhìn ra các nước phát
triển phương Tây, họ đã thực hiện việc này từ ngay đầu thế kỷ 20. Ví dụ
như ở Đức, họ phân luồng, định hướng nghề cho học sinh từ rất sớm, ngay
cuối tiểu học và đầu cấp hai. Ở Pháp, có hội đồng ở từng quận, xã để
hướng nghiệp cho học sinh, được làm ngay từ lớp 7. Học sinh được định
hướng nghề sớm giúp hệ thống đào tạo vận động hài hòa, có sự liên thông
giữa các hệ đào tạo và xã hội tận dụng được mọi nguồn lực”.
“Đây là vấn đề cần làm
đồng bộ, nhưng vai trò quyết định là ở quản lý nhà nước, cần tổ chức
hướng nghiệp cho học sinh, vượt qua tâm lý học để đi thi, từ đó phát
triển hệ thống giáo dục theo hướng cải tạo tâm lý”, nguyên Bộ trưởng
Phạm Minh Hạc đánh giá.
Mạnh Hải
Thực hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét